Địa chỉ: Phòng số LE-04.47 Lexington Residence, 67 Mai Chí Thọ, P. An Phú,TP.Thủ Đức
Mạng xã hội:

Email: lsnguyenquocanh@gmail.com

0919403605

0948300400

Tổng hợp 08 bản án về bỏ sót người thừa kế khi phân chia di sản

Tổng hợp 08 bản án về bỏ sót người thừa kế khi phân chia di sản

Tổng hợp 08 bản án về bỏ sót người thừa kế khi phân chia di sản

Tổng hợp 08 bản án về bỏ sót người thừa kế khi phân chia di sản

Tổng hợp 08 bản án về bỏ sót người thừa kế khi phân chia di sản
Tổng hợp 08 bản án về bỏ sót người thừa kế khi phân chia di sản

Lĩnh vực tư vấn

Tổng hợp 08 bản án về bỏ sót người thừa kế khi phân chia di sản

09-11-2021 02:18:27 PM - 347

Sau đây là Tổng hợp 08 bản án về bỏ sót người thừa kế khi phân chia di sản và các phán quyết của Tòa, các bạn cùng tham khảo.

1. Bản án 01/2018/DS-ST ngày 14/08/2018 về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

+ Phán quyết của Tòa: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Duy V - Công chứng viên Văn phòng Công chứng H. Tuyên bố Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229 ngày 11/5/2017 do công chứng viên Lê Duy V, Văn phòng Công chứng H thực hiện là vô hiệu.”

2. Bản án 09/2017/DSST ngày 12/12/2017 về yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

 + Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

+ Phán quyết của Tòa: “Hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất số 00003796 ngày 27/11/2014 tại Văn phòng Công chứng CK giữa bên tặng cho bà M Bkrông với bên nhận tặng cho bà N Bkrông. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 00001893 ngày 04/4/2016 tại Văn phòng Công chứng CK giữa bên chuyển nhượng bà N Bkrông với bên nhận chuyển nhượng bà Nguyễn Thị Vân A…”

3. Bản án 384/2019/DS-PT ngày 29/08/2019 về tranh chấp di sản thừa kế; yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Phán quyết của Tòa: “Hủy bản án sơ thẩm số 91/2018/DSST ngày 09/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giải quyết lại vụ án.”

4. Bản án 332/2019/DSPT ngày 07/08/2019 về yêu cầu hủy văn bản khai nhận di sản, hủy tờ khai xác nhận quan hệ thừa kế, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chia di sản thừa kế

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Phán quyết của Tòa: “Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, anh Ngô Võ Anh T, sửa bản án sơ thẩm. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, ông Ngô Văn H về hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 218562 cấp ngày 05/9/2005 của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt…”

5. Bản án 162/2018/DS-ST ngày 22/06/2018 về tranh chấp liên quan đến tuyên bố văn bản kê khai di sản thừa kế vô hiệu

 + Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Phán quyết của Tòa: “Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Tuyên bố hủy Văn bản khai nhận di sản thừa kế số 17667 quyển số 08 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/8/2017 của Văn phòng Công chứng BT, Thành phố Hồ Chí Minh.”

6. Bản án 60/2017/DS-ST ngày 26/09/2017 về yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và văn bản liên quan đến việc khai nhận di sản thừa kế

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

+ Phán quyết của Tòa: “Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ngô Thị T về việc “Yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và văn bản liên quan đến việc khai nhận di sản thừa kế””.

7. Bản án 33/2019/DS-ST ngày 11/07/2019 về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. 

+ Phán quyết của Tòa: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuyên bố Văn bản thỏa thuận phân chia di sản số 178/2015 ngày 03/9/2015 và Văn bản điều chỉnh ngày 18/5/2016 của Phòng Công chứng A, tỉnh Đồng Nai vô hiệu.”

8. Bản án 336/2019/DS-ST ngày 05/09/2019 về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Phán quyết của Tòa: “Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Tuyên bố Văn bản thỏa thuận phân chia di sản số công chứng: 003624 do Văn phòng Công chứng C chứng nhận ngày 24 tháng 5 năm 2018 là giao dịch dân sự vô hiệu.”

Nguyễn Sáng

 

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 01/2018/DS-ST NGÀY 14/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN YÊU CẦU TUYÊN BỐ VĂN BẢN CÔNG CHỨNG VÔ HIỆU

Ngày 14 tháng 8 năm 2018, tại hội trường xét xử TAND huyện Tĩnh Gia, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 06/2018/TLST-DS ngày 23/3/2018 về “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXXST-DS ngày 10/7/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lê Duy V - Sinh năm: 1952 - Công chứng viên Văn phòng Công chứng H

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

- Bị đơn: Bà Lê Thị B - Sinh năm: 1962

Địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Hồ Thị H - Sinh năm: 1989

Nơi ĐKHKTT: Thôn x, xã M, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ

- Người làm chứng:

+ Ông Hồ Văn M - Sinh năm: 1925

Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

+ Chị Bùi Thị H1 - Sinh năm: 1994

Nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

+ Ông Bùi Khắc T - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

+ Anh Hồ Văn C - Sinh năm: 1985

Là Trưởng thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

Địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt; bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 23/3/2018 và bản tự khai ngày 26/3/2018, ông Lê Duy V trình bày:

Ngày 21/4/2017, Văn phòng Công chứng H tiếp nhận hồ sơ phân chia di sản thừa kế của bà Lê Thị B, trú tại thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa đối với người để lại di sản là ông Hồ Văn H - Sinh năm: 1955 (là chồng bà B). Trong hồ sơ đề nghị phân chia di sản mà bà B cung cấp cho Văn phòng Công chứng H có Bản khai quan hệ nhân thân của bà Lê Thị B đã được anh Hồ Văn C (Trưởng thôn H) và ông Bùi Khắc T (Chủ tịch UBND xã T) ký xác nhận ngày 21/4/2017, thì ông Hồ Văn H (chồng bà B) chết để lại di sản thừa kế cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất chỉ có bà Lê Thị B (vợ) và chị Hồ Thị H (con); còn cụ Hồ Văn M (bố đẻ) và cụ Phan Thị C (mẹ đẻ) đều đã chết.

Sau khi tiếp nhận hồ sơ về phân chia di sản của bà Lê Thị B, Văn phòng Công chứng H đã làm đúng, đầy đủ các thủ tục theo quy định của pháp luât. Ngày 11/5/2017, Văn phòng Công chứng H đã chứng nhận văn bản phân chia di sản đối với bà Lê Thị B.

Đến ngày 25/12/2017, UBND xã T đã có Công văn số 101/UBND-TNMT gửi Văn phòng công chứng H với nội dung: Bản khai quan hệ nhân thân của bà Lê Thị B là không đúng sự thật bởi trong nội dung của bản khai quan hệ nhân thân thì cụ Hồ Văn M (bố đẻ của ông Hồ Văn H) đã chết, nhưng thực tế cụ Hồ Văn M vẫn đang còn sống tại thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Mặt khác qua tìm hiểu thì được biết, ông Hồ Văn H và bà Lê Thị B có người con trai là Hồ Văn H2 (đã chết), anh Hồ Văn H2 đã có vợ là Bùi Thị H1 và có 01 người con trai là Hồ Văn Quốc A (sinh năm 2012).

Như vậy Bản khai quan hệ nhân thân nói trên đã không khai 02 người được thừa kế di sản của ông Hồ Văn H là cụ Hồ Văn M và những người thừa kế thế vị của anh Hồ Văn H2 (đã chết). Do đó Văn bản phân chia di sản thừa kế mà Văn phòng Công chứng H lập ngày 11/5/2017 đã bỏ sót 02 người.

Sau khi phát hiện có sai sót nói trên, Văn phòng Công chứng H cùng với UBND xã T đã chủ động gặp gỡ, trao đổi, giải thích và yêu cầu bà B cùng những người có liên quan đến làm thủ tục hủy bỏ văn bản phân chia di sản thừa kế nói trên nhưng bà B và những người liên quan trên không hợp tác nên việc hủy bỏ không được thực hiện.

Nay ông có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia tuyên vô hiệu đối với Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/5/2017 của Văn phòng Công chứng H.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 30/5/2018, bà Lê Thị B trình bày: Bà sinh được 03 người con (02 trai, 01 gái), 02 người con trai đã chết, chỉ còn lại một người con gái là Hồ Thị H (chị H lấy chồng và sinh sống tại huyện Đ, tỉnh Phú Thọ). Trước đây, bà và con gái là Hồ Thị H có đến Văn phòng Công chứng H lập văn bản phân chia di sản. Tất cả giấy tờ chuyển nhượng do anh P (Cán bộ địa chính) làm, anh P bảo bà đến Văn phòng Công chứng ký tên, điểm chỉ. Bà không biết nội dung bà đã ký. Con dâu bà là chị Bùi Thị H1 (vợ của anh H2) hiện đang ở Quảng Ninh. Bà có quan điểm ai làm hợp đồng thì người đó hủy vì bà là người bị anh Lê Hùng P - Cán bộ địa chính xã T lừa và bà đề nghị làm sáng tỏ mọi việc, ai sai phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

* Lời khai của những người làm chứng:

- Cụ Hồ Văn M trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 26/3/2018: Cụ là bố đẻ của ông Hồ Văn H, cụ có vợ là Phan Thị C (hiện đã chết). Ông Hồ Văn H là con thứ tư của cụ. Ông H có vợ là Lê Thị B. Ông H và bà B có 03 người con là: Hồ Văn H3, Hồ Văn H2 và Hồ Thị H. Ông Hồ Văn H chết ngày 05/11/2015. Hồ Văn H3 chết khi đang học lớp 12 (chưa có vợ con). Hồ Văn H2 có vợ là Bùi Thị H1 và có 01 con là Hồ Văn Quốc A. Hồ Văn H2 chết ngày 07/3/2013. Khi bà B và chị H đến Văn phòng Công chứng H để xin chứng nhận vào Văn bản phân chia di sản thừa kế của ông Hồ Văn H thì cụ hoàn toàn không biết gì. Đến ngày 15/11/2017 thì cụ mới được biết sự việc đó. Sau đó, ngày 25/01/2018, cụ đã gửi đơn tố cáo đến UBND xã T và UBND huyện T về sự việc trên.

Với những lý do nêu trên, cụ yêu cầu Tòa án hủy Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/5/2017 của Văn phòng Công chứng H vì đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cụ.

- Ông Bùi Khắc T - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa, trình bày trong biên bản xác minh ngày 26/3/2018: Do tin tưởng vào việc nội dung Bản kê khai quan hệ nhân thân của bà Lê Thị B đã được Trưởng thôn là anh Hồ Văn C kiểm tra. Khi cán bộ chuyên môn trình ký, do sơ xuất nên ông đã ký xác nhận vào Bản kê khai quan hệ nhân thân nêu trên.

- Anh Hồ Văn C - Trưởng thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa trình bày tại bản tự khai ngày 05/6/2018: Anh có ký vào Bản kê khai quan hệ nhân thân của bà Lê Thị B. Lý do là anh không đọc văn bản, anh tin tưởng vào cán bộ chuyên môn và tin tưởng vào Hồ Thị H (là em gái, con nhà chú của anh). Sau khi phát hiện ra sai phạm, anh đã báo cáo trực tiếp với Chủ tịch UBND xã T là ông Bùi Khắc T. Vì vậy, UBND xã T đã có Công văn gửi Văn phòng Công chứng H đề nghị hủy hồ sơ về việc sử dụng đất của hộ gia đình bà Lê Thị B tại thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

* Quan điểm của đại điện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa tại phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng:

+ Nguyên đơn: Ông Lê Duy V - Công chứng viên Văn phòng Công chứng H đã chấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự;

+ Bị đơn: Bà Lê Thị B đã không chấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự;

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Hồ Thị H đã không chấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 73 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ vào Điều 52 của Luật công chứng năm 2014; Điều 122, Điều 127 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 11 Điều 26, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, Điều 26, tiểu mục 1.1 mục 1 phần II Danh mục án phí, lệ phí Tòa án - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Duy V - Công chứng viên Văn phòng Công chứng H. Tuyên bố Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/5/2017 do công chứng viên Lê Duy V, Văn phòng Công chứng H thực hiện là vô hiệu.

Bà Lê Thị B và chị Hồ Thị H có trách nhiệm bàn giao lại 04 (bốn) bản chính Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/5/2017 cho Văn phòng Công chứng H để Văn phòng Công chứng H thực hiện việc hủy bỏ theo quy định của pháp luật. Văn phòng Công chứng H có trách nhiệm thông báo về việc văn bản công chứng vô hiệu theo quy định của pháp luật.

+ Án phí: Buộc bà Lê Thị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX xét thấy:

[1] Về tố tụng:

- Đối với bà Lê Thị B: Sau khi thụ lý vụ án, mặc dù đã nhận được thông báo thụ lý, nhưng bà B vẫn không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án. Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng cho bà B, nhưng bà do bà B thường xuyên vắng nhà nên việc tống đạt cho bà B không thực hiện được, những lúc bà B có nhà thì bà B lại từ chối, không nhận văn bản tố tụng của Tòa án. Do trong quá trình giải quyết vụ án bà B chỉ đến Tòa một lần duy nhất đó là lần nhận thông báo thụ lý vụ án nên Tòa án phải ủy thác cho UBND xã T lấy lời khai cũng như tống đạt các văn bản tố tụng cho bà theo quy định của pháp luật.

- Đối với chị Hồ Thị H: Chị H đã biết Tòa án đang tiến hành giải quyết vụ án theo đơn khởi kiện của Công chứng viên Lê Duy V, chị cũng đã liên lạc với Tòa án bằng điện thoại nhưng do đường sá xa xôi nên chị đề nghị để chị thu xếp thời gian hợp lý đến Tòa án làm việc vào một ngày gần nhất. Nhưng sau đó chị đã không chấp hành như đã hẹn, do đó Tòa án đã trực tiếp đến UBND xã M, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ nơi chị sinh sống và đăng ký hộ khẩu thường trú để tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ. Tuy nhiên tại biên bản xác minh ngày 30/5/2018, Công an xã M cho biết: Chị Hồ Thị H lấy anh Nguyễn Văn Q (con ông Nguyễn Văn C và bà Hoàng Thị S) có địa chỉ ở thôn x, xã M, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Chị H đã nhập khẩu ở địa chỉ nói trên. Theo ông Nguyễn Văn C - bố chồng chị H cho biết thì hiện tại chị H đã bỏ nhà ra đi (không rõ địa chỉ) vì lý do vợ chồng trục trặc về mặt tình cảm. Tại biên bản xác minh ngày 27/6/2018, Công an xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa xác nhận chị H đã chuyển khẩu đến xã M, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ từ tháng 11/2007, hiện tại chị H không cư trú tại xã T. Do đó Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng tại UBND xã M, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ và UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa để tiến hành giải quyết, xét xử vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

- Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, ông Lê Duy V có mặt tại phiên tòa và giữ nguyên quan điểm của mình theo đơn khởi kiện, bà Lê Thị B và chị Hồ Thị H đều vắng mặt tại phiên tòa (không có lý do). Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bà B và chị H vẫn vắng mặt tại phiên tòa; vì vậy, HĐXX căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về nội dung:

- Nguyên đơn ông Lê Duy V - Công chứng viên văn phòng Công chứng H yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia tuyên bố Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/5/2017 của Văn phòng Công chứng H vô hiệu với lý do: Trong hồ sơ đề nghị phân chia di sản mà bà B cung cấp cho Văn phòng Công chứng H có Bản khai quan hệ nhân thân của bà Lê Thị B đã được ông Hồ Văn C (Trưởng thôn H) và ông Bùi Khắc T (Chủ tịch UBND xã T) ký xác nhận ngày 21/4/2017, thì ông Hồ Văn H (chồng bà B) chết để lại di sản thừa kế cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất chỉ có bà Lê Thị B (vợ) và chị Hồ Thị H (con); còn cụ Hồ Văn M (bố đẻ) và cụ Phan Thị C (mẹ đẻ) đều đã chết.

Tuy nhiên, Bản khai quan hệ nhân thân của bà Lê Thị B là không đúng sự thật bởi trong nội dung của bản khai quan hệ nhân thân thì cụ Hồ Văn M (bố đẻ của ông Hồ Văn H) đã chết, nhưng thực tế cụ Hồ Văn M vẫn đang còn sống tại thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Mặt khác qua tìm hiểu thì được biết, ông Hồ Văn H và bà Lê Thị B có người con trai là Hồ Văn H2 (đã chết), anh Hồ Văn H2 đã có vợ là Bùi Thị H1 và có 01 người con trai là Hồ Văn Quốc A (sinh năm 2012).

Như vậy Bản khai quan hệ nhân thân nói trên đã không khai 02 người được thừa kế di sản của ông Hồ Văn H là cụ Hồ Văn M và những người thừa kế thế vị của anh Hồ Văn H2 (đã chết). Do đó Văn bản phân chia di sản thừa kế mà Văn phòng Công chứng H lập ngày 11/5/2017 đã bỏ sót 02 người.

- Còn bị đơn bà Lê Thị B thừa nhận: Bà và chị Hồ Thị H có đến Văn phòng Công chứng H lập Văn bản phân chia di sản. Tất cả giấy tờ chuyển nhượng do anh Lê Hùng P (Cán bộ địa chính) làm, anh P bảo bà đến Văn phòng Công chứng ký tên và điểm chỉ, bà không biết nội dung bà đã ký. Quan điểm của bà là ai làm sai thì người đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

- Đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ thấy rằng: Ngày 21/4/2017, Văn phòng Công chứng H tiếp nhận hồ sơ phân chia di sản thừa kế của bà Lê Thị B đối với người để lại di sản là ông Hồ Văn H (là chồng bà B). Kiểm tra các tài liệu mà công dân cung cấp thấy đã đúng nên ngày 11/5/2017 Văn phòng Công chứng H đã chứng nhận vào Văn bản phân chia di sản số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD cho bà Lê Thị B. Do Bản khai quan hệ nhân thân (có xác nhận của Trưởng thôn H và Chủ tịch UBND xã T) là căn cứ quan trọng nhất để xác định những người nằm trong diện thừa kế được hưởng di sản thừa kể của ông Hồ Văn H đã để sót và không khai 02 người được thừa kế di sản của ông Hồ Văn H là cụ Hồ Văn M và những người thừa kế thế vị của anh Hồ Văn H2 (đã chết) nên dẫn đến Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD của Văn phòng Công chứng H lập ngày 11/05/2017 cũng để sót 02 người được thừa kế nêu trên.

Việc sai sót nói trên lỗi chính thuộc về chính quyền địa phương xã T đã không kiểm tra trước khi ký xác nhận vào Bản khai quan hệ nhân thân. Tuy nhiên sau khi phát hiện ra sai sót, UBND xã T đã có Công văn gửi Văn phòng Công chứng H đề nghị hủy Văn bản phân chia di sản của bà Lê Thị B với lý do: Bản khai quan hệ nhân thân của bà Lê Thị B là không đúng sự thật và không đúng theo quy định của pháp luật bởi trong nội dung của Bản khai quan hệ nhân thân thì cụ Hồ Văn M (bố đẻ của ông Hồ Văn H) đã chết, nhưng thực tế cụ Hồ Văn M vẫn đang còn sống tại thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Mặt khác, ông Hồ Văn H và bà Lê Thị B có người con trai là Hồ Văn H2 (đã chết), anh Hồ Văn H2 đã có vợ là Bùi Thị H1 và có 01 người con trai là Hồ Văn Quốc A (sinh năm 2012).

Bên cạnh đó, Văn phòng Công chứng H cũng có lỗi trong việc kiểm tra tính pháp lý của các tài liệu có trong hồ sơ mà công dân cung cấp: Do tin tưởng vào các tài liệu có trong hồ sơ vì thấy đã có đầy đủ chữ ký và con dấu của Trưởng thôn và Chủ tịch UBND xã T nên đã tiếp nhận hồ sơ và làm các thủ tục còn lại để lập Văn bản phân chia di sản thừa kế cho bà Lê Thị B.

Sau khi phát hiện có sai sót như trên, Văn phòng Công chứng H cùng với UBND xã T đã chủ động gặp gỡ, trao đổi, giải thích và yêu cầu bà B cùng những người có liên quan đến làm thủ tục hủy bỏ Văn bản phân chia di sản thừa kế, nhưng bà B và những người liên quan không hợp tác nên Công chứng viên Lê Duy V đã có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia tuyên vô hiệu đối với Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/5/2017 của Văn phòng Công chứng H.

Còn người bị kiện bà Lê Thị B cũng biết và thừa nhận Bản khai quan hệ nhân thân nói trên đã để sót và không khai 02 người được thừa kế di sản của ông Hồ Văn H là cụ Hồ Văn M và những người thừa kế thế vị của anh Hồ Văn H2 (đã chết), dẫn đến Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD của Văn phòng Công chứng H lập ngày 11/5/2017 cũng để sót 2 người được thừa kế. Nhưng bà B cho rằng bà là người bị anh Lê Hùng P - Cán bộ địa chính xã T lừa và bà đề nghị làm sáng tỏ mọi việc, ai sai phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tuy nhiên theo báo cáo đề ngày 01/6/2018 của anh Lê Hùng P thì anh hoàn toàn không biết việc bà B và chị H đến Văn phòng Công chứng H để thực hiện Văn bản phân chia di sản thừa kế.

Hơn nữa, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đều thể hiện việc bà B và chị H đến Văn phòng Công chứng H công chứng Văn bản phân chia di sản thừa kế không liên quan gì đến anh Lê Hùng P.

Từ những phân tích trên, có đầy đủ căn cứ để chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tĩnh Gia và chấp nhận đơn khởi kiện của ông Lê Duy V - Công chứng viên Văn phòng Công chứng H yêu cầu tuyên bố Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC- SCC/HĐGD của Văn phòng Công chứng H lập ngày 11/5/2017 vô hiệu.

[3] Án phí: Bà Lê Thị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Dành quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 52 của Luật công chứng năm 2014; Điều 122, Điều 127 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 11 Điều 26, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, Điều 26, tiểu mục 1.1 mục 1 phần II Danh mục án phí, lệ phí Tòa án - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Duy V - Công chứng viên Văn phòng Công chứng H. Tuyên bố Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/5/2017 do công chứng viên Lê Duy V, Văn phòng Công chứng H thực hiện là vô hiệu.

Bà Lê Thị B và chị Hồ Thị H có trách nhiệm bàn giao lại 04 (bốn) bản chính Văn bản phân chia di sản thừa kế số công chứng 1229, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/5/2017 cho Văn phòng Công chứng H để Văn phòng Công chứng H thực hiện việc hủy bỏ theo quy định của pháp luật. Văn phòng Công chứng H có trách nhiệm thông báo về việc văn bản công chứng vô hiệu theo quy định của pháp luật.

- Án phí:

+ Bà Lê Thị B phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

+ Trả lại cho ông Lê Duy V 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2016/0005556 ngày 23/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tĩnh Gia.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt ông Lê Duy V, vắng mặt bà Lê Thị B và chị Hồ Thị H tại phiên tòa. Tuyên bố người có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự./.

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 09/2017/DSST NGÀY 12/12/2017 VỀ YÊU CẦU TUYÊN BỐ VĂN BẢN CÔNG CHỨNG VÔ HIỆU, YÊU CẦU HỦY HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 12 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 09/2017/TLST – DS ngày 03 tháng 4 năm 2017 về việc Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy GCNQSD đất và theo Thông báo về việc thụ lý vụ án số 09a/2017/TB-TLVA ngày 10/7/2017 đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Vân A.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2017/QĐXX – ST ngày 24 tháng 10 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà R Bkrông và bà C Bkrông. Đều có mặt. Cùng địa chỉ: Buôn EK, xã EB, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông W Ayun. Có mặt.

Địa chỉ: Buôn P, xã EK, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Lê Quang Tr – Chi nhánh Văn phòng Luật sư Lê Quang Tr, đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt

Địa chỉ: PCT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị đơn: Văn phòng Công chứng Đ.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Văn Ch – chức vụ: Trưởng văn phòng.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Đặng Miên Th.

Cùng địa chỉ: NQ, phường TL, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân huyện CK

Địa chỉ: Khu trung tâm hành chính huyện CK, xã DB, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn K – Chức vụ: Trưởng phòngTài nguyên và môi trường huyện CK. Vắng mặt.

2. Bà M Brông. Vắng mặt.

3. Bà N Bkrông.Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Buôn EK, xã EB, huyện CK.

4. Văn phòng Công chứng CK.

Đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đông T – Trưởng Văn phòng(Có đơn xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn KC, xã DB, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Bà NguyễnThị Vân A (có mặt).

Địa chỉ: CVA, phường TA, thành phố B, Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà R Bkrông, bà C Bkrông, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông W Ayun và luật sư trình bày:

Bà R Bkrông, C Bkrông và M Bkrông đều là con của ông Đ Bdap và bà B Bkrông. Năm 2005, ông Đ và bà B chết, di sản thừa kế của ông Đ và bà B là quyền sử dụng đất tọa lạc tại xã EB, huyện CK theo giấy chứng nhận quyền sửdụng đất số B 94725X do UBND huyện KA, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 14/7/1993 đã được chị em bà RBkrông và bà C B krông thỏa thuận chia nhau thửa đất nói trên để canh tác và sinh sống ổn định.

Tuy nhiên, ngày 18/5/2016, có bà Nguyễn Thị Vân A đến thửa đất nói trên để đo đạc và nói rằng đã mua đất từ bà N Bkrông (là con của bà M Bkrông). Qua tìm hiểu, bà R và bà C iết được sau khi ông Đ và bà B mất, bà M đã đến UBND xã EB xin xác nhận mình là người con duy nhất của ông Đ và bà B. Do không đọc kỹ nội dung trong đơn xin xác nhận nên UBND xã EB đã xác nhận cho bà M Bkrông. Sau đó, đến ngày 15/10/2014, bà M đã một mình đem giấy xác nhận trên và các giấy tờ liên quan đến Văn phòng Công chứng Đ để làm thủ tục khai nhận tài sản là quyền sử dụng đất do ông Đ và bà B để lại là của một mình bà M Bkrông.

Dựa vào văn bản khai nhận tài sản chung, bà M Bkrông đã làm thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất từ tên ông Đ Bdap và bà B sang tên mình, sau đó tặng cho lại quyền sử dụng đất đó cho con gái là N Bkrông nhằm che dấu hành vi sai trái của mình.

Ngày 22/4/2016, bà N Bkrông đã chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất này cho bà Nguyễn Thị Vân A và bàNguyễn Thị Vân A đã được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện CK cập nhật thay đổi chủ sở hữu trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Sự việc này bà R và bà C hoàn toàn không được biết cho đến khi bà Nguyễn Thị Vân A đến để nhận tài sản mà mình đã mua. Diện tích đất nói trên thực tế hiện nay bà R và C vẫn sử dụng, còn bà Vân A chỉ đứng tên trên GCNQSD đất.

Việc làm của bà M là hành vi gian dối, cố tình che dấu sự thật để chiếm đoạt tài sản cha mẹ để lại, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà R và bà C Bkrông.

Việc Văn phòng Công chứng Đ căn cứ vào thông tin gian dối của bà M Bkrông sau đó tiến hành lập Văn bản khai nhận tài sản chung ngày 15/10/2014 đối với tài sản do cha mẹ chúng tôi để lại cho riêng bà M Bkrông là không đúng với thực tế, bỏ sót người thừa kế là hai chị em bà R và C. Do đó, bà R Bkrông và bà C Bkrông khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giải quyết các yêu cầu sau:

- Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng số 08325 về việc phân chia tài sản chung ngày 15/10/2014 của Văn phòng Công chứng Đ là vô hiệu.

- Yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà M Brông vớibà N Brông và hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà NBrông với bà Nguyễn Thị Vân A.

- Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang đứng tên bàNguyễn Thị Vân A.

Đối với yêu cầu phân chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất nói trên, bà R Bkrông và bà C Bkrông không yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giải quyết trong vụ án này mà sẽ khởi kiện thành một vụ án khác.

* Đại diện theo ủy quyền của bị đơn Văn phòng Công chứng Đ là bàTrần Đặng Miên Th trình bày:

Ngày 15/10/2014, bà M Bkrông đến Văn phòng Công chứng Đ để yêu cầu Văn phòng Công chứng làm thủ tục khai nhận tài sản chung do bố mẹ của bà là ông Đ Dbap và bà B Bkrông để lại. Tài sản khai nhận là quyền sử dụng đất số B94725X do UBND huyện KA tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 14/7/1993 thuộc tờ bản đồ số 31, thửa 8569a, 8567.

Sau khi tiếp nhận hồ sơ, Văn phòng công chứng đã kiểm tra hồ sơ và yêu cầu bà M Bkrông cung cấp thông tin về những người thừa kế của ông Đ Bdap và bà B Bkrông cũng như các giấy tờ có liên quan đồng thời giải thích rõ cho bà M Bkrông về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tiến hành việc khai nhận di sản. Bà M Bkrông cho biết mình là người con duy nhất của ông Đ Bdap và bà B Bkrông, ngoài bà ra, bố mẹ bà không còn người con nào khác và cung cấp đơn xin xác nhận về việc bà là người con duy nhất có xác nhận của Công an xã EB và UBND xã EB, huyện CK ngày 13/10/2014.

Việc yêu cầu khai nhận tài sản chung của bà M Bkrông là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp theo quy định của pháp luật. Bà Trần Thị M1 là công chứng viên đã kiểm trả hồ sơ và xác định người đẻ lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, người yêu cầu công chứng đúng là người được hưởng di sản dựa trên các giấy tờ cho người yêu cầu công chứng cung cấp. Xét thấy, đây là trường hợp được công chứng theo quy định của pháp luật, công chứng viên đã tiến hành thủ tục công chứng việc khai nhận di sản thừa kế cho bà M Bkrông. Bà M Bkrông đã đọc, nghe đọc và đồng ý toàn bộ nội dung trong văn bản khai nhận tài sản chung và đã ký tên vào Văn bản khai nhận tài sản chung trước mặt công chứng viên.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 57 Luật công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh theo đề nghị của người yêu cầu công chứng trong trường hợp công chứng viên từ chối công chứng nếu thấy chưa rõ hoặc không đúng pháp luật.

Các tin khác

CÔNG TY LUẬT TNHH QA VÀ CỘNG SỰ