Địa chỉ: Phòng số LE-04.47 Lexington Residence, 67 Mai Chí Thọ, P. An Phú,TP.Thủ Đức
Mạng xã hội:

Email: lsnguyenquocanh@gmail.com

0919403605

0948300400

BẢN ÁN DÂN SỰ PHÚC THẨM VỤ CĂN NHÀ 5 TỶ, BÁN GIÁ 1 TRIỆU ĐỒNG

BẢN ÁN DÂN SỰ PHÚC THẨM VỤ CĂN NHÀ 5 TỶ, BÁN GIÁ 1 TRIỆU ĐỒNG

BẢN ÁN DÂN SỰ PHÚC THẨM VỤ CĂN NHÀ 5 TỶ, BÁN GIÁ 1 TRIỆU ĐỒNG

BẢN ÁN DÂN SỰ PHÚC THẨM VỤ CĂN NHÀ 5 TỶ, BÁN GIÁ 1 TRIỆU ĐỒNG

BẢN ÁN DÂN SỰ PHÚC THẨM VỤ CĂN NHÀ 5 TỶ, BÁN GIÁ 1 TRIỆU ĐỒNG
BẢN ÁN DÂN SỰ PHÚC THẨM VỤ CĂN NHÀ 5 TỶ, BÁN GIÁ 1 TRIỆU ĐỒNG

Lĩnh vực tư vấn

BẢN ÁN DÂN SỰ PHÚC THẨM VỤ CĂN NHÀ 5 TỶ, BÁN GIÁ 1 TRIỆU ĐỒNG

11-11-2021 11:12:40 AM - 309

 Nội dung vụ án:

 Trước đây, ông Hoàng Anh T là Việt Kiều định cư tại Mỹ. Trong năm 2007, 2008, ông T có gửi tiền về cho ông Nguyễn Văn M (là người anh bà con) đứng tên mua đất và xây dựng nhà trên lô đất tại 49 Đường L, phường T3, quận S, thành phố Đà Nẵng.

Năm 2009, ông T về nước, đã làm đám cưới với bà Ngô Thị Bảo T1 nhưng chưa đăng ký kết hôn vì thiếu giấy tờ. Sau khi kết hôn, hai người đã sinh sống trên phần đất này, bà T1 yêu cầu ông T sang tên ngôi nhà tại số 49 đường L nói trên cho bà đứng tên. Ông T tin tưởng đồng ý. Ngày 16/1/2013, vợ chồng ông M đã lập hợp đồng sang tên nhà và đất cho bà T1, vì thực tế không có việc mua bán nên khi lập hợp đồng, giá chuyển nhượng được ghi là 1.000.000 đồng. Hợp đồng đã được công chứng tại Phòng Công chứng X thành phố Đà Nẵng.

Sau đó, bà T1 muốn bán căn nhà, ông T đã treo bảng nhà có tranh chấp không bán được. Vì vậy, bà T1 đã khởi kiện đòi ông T trả ngôi nhà tranh chấp. Nhưng bà T đã tự ý bán ngôi nhà cho bà Vũ Thị H1 và rút đơn khởi kiện.

Cho rằng việc mua bán ngôi nhà đang tranh chấp là không đúng pháp luật, ông T khởi kiện yêu cầu:

– Hủy Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất giữa bà T1 với ông M và bà H3 được Phòng Công chứng số X thành phố Đà Nẵng công chứng ngày 16/01/2013;

– Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Ngô Thị Bảo T1 và bà Vũ Thị H1 được Văn phòng Công chứng P công chứng ngày 21/5/2016

– Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất mang tên bà Ngô Thị Bảo T1 do Sở Tài Nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 17/7/2013 đã được chỉnh lý biến động sang tên cho bà Vũ Thị H1 ngày 23/5/2016;

– Công nhận nhà đất 49 Đường L, quận S, thành phố Đà Nẵng thuộc sở hữu của ông T.

 

Tại bản án sơ thẩm số 33/2018/DS-ST ngày 07/6/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng quyết định:

 

  1. Không chấp nhận yêu cầu của ông Hoàng Anh T về việc công nhận nhà đất tại 49 Đường L, phường T3, quận S, thành phố Đà Nẵng thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông Hoàng Anh T.
  2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Hoàng Anh T về việc:

2.1. Huỷ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Ngô Thị Bảo T1 với ông Nguyễn Văn M và bà Hoàng Thị H3 được Phòng Công chứng số X thành phố Đà Nẵng công chứng ngày 16/01/2013.

2.2. Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Ngô Thị Bảo T1 và bà Vũ Thị H1 được Văn phòng Công chứng P thành phố Đà Nẵng công chứng ngày 21/5/2016.

2.3. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp cho bà Ngô Thị Bảo T1 ngày 17/7/2013, chỉnh lý biến động sang tên cho bà Vũ Thị H1 ngày 23/5/2016.

2.4. Hủy Hợp đồng thế chấp số: STR.BĐCN.240516 ngày 24/5/2016 giữa bà Vũ Thị H1 và Ngân hàng TMCP A thành phố Hồ Chí Minh.

 

Ngày 13/6/2018, ông Hoàng Anh T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 22/6/2018, Viện trưởng VKSND thành phố Đà Nẵng có quyết định kháng nghị số 04/QĐKNPT-VKS-DS đối với bản án sơ thẩm.

 Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

 Tại thời điểm ông M chuyển nhượng nhà đất cho bà Ngô Thị Bảo T1 là hoàn toàn tự nguyện giữa các bên bao gồm ông T, ông M và bà T1. Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm ông T cũng thừa nhận việc ông để bà T1 thực hiện việc giao dịch với ông M là hoàn toàn tự nguyện và không bị lừa dối. Sau khi bà T1 ký kết hợp đồng chuyển nhượng với ông M thì đã được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp Giấy chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu. nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Đồng thời bà T1 đã thực hiện quyền của người sử dụng đất là thế chấp cho bà Nguyễn Thị M1 vay số tiền 1.200.000.000 đồng, để mua 01 lô đất khác của bà Nguyễn Thị H3. Như vậy việc ông T cho rằng giao dịch giữa ông Nguyễn Văn M và bà Ngô Thị Bảo T1 bị vô hiệu do bị bà T1 lừa dối, nhưng không có chứng cứ chứng minh hành vi lừa dối của bà T1.

Việc giao dịch giữa bà H1 và bà T1 đã hoàn tất, bà H1 đã được cơ quan có thẩm quyền thừa nhận việc sở hữu tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất bằng việc chỉnh lý biến động tài sản theo quy định. Sau khi được chỉnh lý biến động đất sang tên mình, bà H1 đã thực hiện quyền của người sử dụng đất và sở hữu tài sản trên đất, thế chấp cho Ngân hàng để vay tiền. Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Ngân hàng TMCP A xác nhận bà H1 hiện nay đang thế chấp tài sản và còn nợ số tiền hơn 02 tỷ đồng.

Như vậy giao dịch giữa bà T1 và ông M không bị vô hiệu nên giao dịch giữa bà T1 với bà H1 cũng không bị vô hiệu. Đồng thời bà H1 cũng là bên thứ ba ngay tình khi tham gia giao dịch này.

Do giao dịch dân sự giữa các bên không vô hiệu nên giao dịch dân sự về thế chấp tài sản giữa bà H1 với Ngân hàng cũng không bị vô hiệu.

 Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên:

 Không chấp nhận kháng nghị số 04/QĐKNPT-VKS-DS ngày 22 tháng 6 năm 2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng. Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Hoàng Anh T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 33/2018/DS-ST, ngày 07 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Luật sư PHAN THANH NAM

Các tin khác

CÔNG TY LUẬT TNHH QA VÀ CỘNG SỰ